Chương
5: Thay quyền anh, Nguyễn Huệ nhổ cây thu phục Nguyễn Văn Tuyết. - Tìm minh chủ,
Trần Quang Diệu đánh cọp gặp gỡ Bùi Thị Xuân.
Nhắc
lại Nguyễn Nhạc dẫn hai em là Nguyễn Huệ và Nguyễn Lữ cùng các thủ hạ lên Tây
Sơn Thượng. Tuyết hay tin ra nghênh đón rồi tất cả cùng vào doanh trại.
Sau
khi yên vị Nhạc nói:
-
Ngày mai ta về Quy Nhơn để nhận chức Biện lại huyện Vân Đồn. Nguyễn Huệ em kế của
ta sẽ thay ta điều binh khiển tướng, huấn luyện binh sĩ, xây dựng doanh trại để
phòng thủ. Hẹn ba tháng sau ta mang lương thảo về rồi cùng nhau khởi sự.
Nguyễn
Văn Tuyết hậm hực bước ra nói:
-
Từ ngày tôi theo phò chủ tướng đã năm năm nay. Nguyện Huệ dù là em ruột của chủ
tướng nhưng có tài cán gì, vả lại, tuổi còn nhỏ dại nay thay chủ tướng điều khiển
ba quân tôi e có nhiều người không phục.
Huệ
điềm đạm nói:
-
Thưa đại huynh, việc người thay thế hãy khoan bàn đến, Xin đại huynh hãy cho
duyệt binh xem quân thế uy dũng ra sao, tiến thoái thế nào?
Nhạc
khen:
-
Lời em rất phải.
Nói
xong liền ra ngoài doanh trại tập hợp binh sĩ, bảo Nguyễn Văn Tuyết:
-
Tướng quân chỉ huy binh sĩ luyện tập xem sao!
Huệ
đứng nhìn thấy năm trăm quân hàng ngũ lộn xộn, chỉ luyện tập võ nghệ không có
hiệu lệnh tiến thoái gì cả.
Chờ
Tuyết luyện quân xong Huệ nói:
-
Tướng quân võ nghệ hơn người nên luyện tập binh sĩ khí thế dũng mãnh một có thể
địch hai, ba. Nhưng nếu dùng hiệu lệnh bảo quân tiến thì thế nào, lui thế nào
và sang tả, hữu thì sao, xin tướng quân vui lòng chỉ dạy.
Tuyết
ngập ngừng đáp:
-
Tôi chỉ luyện quân gặp giặc thì đánh, địch ở đâu thì tiến về phía ấy vậy chẳng
đúng hay sao?
Huệ
nói:
-
Binh pháp có dạy: quân ngũ phải chỉnh tề, quân pháp phải nghiêm minh, tiến
thoái đúng theo hiệu lệnh thì nhuệ khí mới mạnh mẽ, ba quân vững dạ, địch quân
trông thấy ắt là nao núng có khi chưa đánh đã tan. Xin tướng quân xét lại.
Tuyết
chẳng nói gì. Nhạc xen vào hỏi:
-
Theo ý em thì nên thế nào?
Huệ
đáp:
-
Lúc qua đèo Mang em quan sát địa hình thấy gần đỉnh đèo có hai hòn núi(1) ở hai
bên đường cách nhau vài dặm. Ta cho quân đắp lũy nối hai núi này, đường đèo làm
cổng lên Tây Sơn Thượng đề phòng binh triều đến đánh. Trong chỉnh đốn đội ngũ,
cứ mười quân làm một toán, mười toán làm một đội, mười đội làm một cơ có toán
trưởng, đội trưởng chưởng cơ đứng đầu. Tập binh tiến thoái theo hiệu cờ và trống
lệnh. Người Thượng có tài bắn cung nỏ bách phát bách trúng, họ vốn mang ân đức
của đại huynh đem muối lên phân phát. Nay ta chiêu mộ người Thượng lập thành đội
xạ thủ, thì dù quân triều có thiên binh vạn mã cũng không thể vượt khỏi đèo
Mang hiểm trở, nói gì đến việc lên vùng Tây Sơn Thượng.
Nhạc
mừng rỡ nói:
-
Em quả nhiên có tài thao lược. Nay có em điều binh khiển tướng ta mới yên lòng.
Nhạc
quay sang Tuyết, cười hỏi:
-
Chẳng hay ý song đao tướng quân Nguyễn Văn Tuyết thế nào?
Tuyết
vòng tay đáp:
-
Tôi thọ ơn chủ tướng chẳng dám sai lời, nhưng lòng này không phục.
Nhạc
hỏi:
-
Như thế nào tướng quân mới phục?
Tuyết
hai tay vịn hai chuôi đao đeo sau lưng đáp:
-
Nếu Huệ thắng được song đao của tôi, thì dù bảo nhảy vào lửa Tuyết cũng xin
vâng.
Bỗng
có tiếng quát:
-
Một ngọn giáo của ta cũng đủ, cần gì phiền đến nhị ca.
Mọi
người nhìn lại thấy Vũ Văn Nhậm đã vác giáo đứng giữa sân, Phan Văn Lân tiến đến
can:
-
Giáo của Vũ huynh vừa chém đầu tham quan giữa chợ ai cũng biết tài. Hãy để trường
thương của tôi xem song đao vô địch biến hóa thế nào.
Tuyết
thấy Văn Lân mặt mày trắng trẻo, dáng dấp thư sinh liền cười lớn:
-
Song đao của ta đâu dùng để đánh tên học trò trói gà không chặt như ngươi!
Văn
Lân thân người mảnh khảnh nhưng tính nóng như lửa, nghe Tuyết cười mình, hơi giận
bốc lên vung thương toan xông đến. Huệ trừng mắt quát:
-
Văn Lân không được vô lễ.
Lân
hậm hực lui ra, Huệ trỏ vào một cây rừng ở giữa giáo trường hỏi Nhạc và Tuyết:
- Ở
trước doanh trại nên dựng cột treo cờ cho thêm vẻ oai nghiêm. Dám hỏi đại huynh
cùng tướng quân Văn Tuyết, cây hoang mọc trước doanh trại là cây gì? Vì sao
không chặt đi?
Tuyết
đáp:
- Ấy
là cây sơn núi, giống cây này có nhựa màu đen nếu chạm phải nhựa ấy liền bị nhức
nhối khắp mình. Nếu thế thôi thì cũng có thể chặt được, riêng cây này chẳng rõ
vì sao lại rất độc, quân lính đã mấy phen chặt thử, nhưng mới chặt vào một dao,
nhựa ứa ra hơi độc xông lên liền sưng phù mình mẩy, nhức nhối ngay tại chỗ nên
không ai dám chặt. Vả lại tôi xét thấy cũng chẳng hại gì nên đành thôi vậy.
Huệ
hỏi:
-
Sao không chất lửa đốt đi?
Nhạc
đỡ lời:
-
Những cây sơn khác nếu đốt khói độc xông lên người ngựa đều mắc bệnh, huống hồ
cây này, nên không dám đốt.
Huệ
đến gần quan sát thấy cây độc cao vài chục thước, chu vi vừa tràm hai gang tay,
bèn nói:
-
Tôi có cách này không cần chặt, cũng không cần đốt lại có thể loại bỏ được cây
độc.
Nhạc
cùng các tướng đồng thanh hỏi:
-
Cách nào?
Huệ
đáp:
-
Nhổ đi.
Tuyết
vỗ tay cười lớn:
-
Nãy giờ chỉ nghe ông nói thì hay lắm nhưng chẳng thấy làm. Nếu được như lời ta
xin dập đầu bái phục.
Huệ
chẳng nói chẳng rằng xắn tay áo, rùn chân xuống tấn ôm lấy thân cây, hét lên một
tiếng nhổ bật cả gốc rễ, buông tay ra cây đã đổ ầm xuống đất. Ba quân vỗ tay
hoan hô như sấm. Tuyết quỳ xuống vái lạy:
-
Tôi có mắt không tròng, chẳng thấy núi Thái Sơn trước mặt, xin tướng quân miễn
chấp. Nguyện một lòng tuân theo lời sai khiến của tướng quân.
Huệ
đỡ Tuyết đứng dậy nói:
-
Nếu tôi có điều gì mạo phạm ấy cũng vì lo đại cuộc mà thôi. Xin tướng quân chớ
để bụng.
Nhạc
mừng rỡ nói với các tướng:
-
Ngày mai ta về thành Quy Nhơn nhận chức Biện lại Vân Đồn để lo việc lương thảo.
Em ta là Nguyễn Huệ tạm thời thay ta điều binh khiển tướng. Còn ai không phục nữa
chăng?
Tướng
sĩ đồng thanh hô:
-
Chúng tôi xin bái phục.
oOo
Một
hôm Huệ cùng các tướng Bùi Thị Xuân, Nguyễn Văn Tuyết, Phan Văn Lân, Ngô Văn Sở,
Vũ Văn Nhậm đang luyện tập quân sĩ bỗng có quân canh vào báo.
-
Bẩm tướng quân, có người Thượng ở trên đèo Măng Giang đến báo, có con voi trắng
một ngà dẫn đầu đàn voi vào làng phá hoại nhà cửa, hoa màu rất dữ. Nhờ tướng
quân đem quân giết voi cứu dân.
Huệ
truyền lệnh:
-
Văn Tuyết, Văn Nhậm, cô Xuân ở lại giữ doanh trại. Văn Lân, Văn Sỡ dẫn theo một
trăm tên xạ thủ cùng ta đến đấy xem sao.
Nữ
tướng Bùi Thị Xuân bước ra thưa:
-
Ngày trước thầy tôi là ông nội của tướng quân Ngô Văn Sở, tên Ngô Mãnh, nguyên
làm chức Đô thống cấm vệ quân của Võ vương Nguyễn Phúc Khoát, theo hộ giá chúa
Nguyễn đến Quy Nhơn để mất ngựa Xích Kỳ của chúa. Phúc Loan mượn cớ làm tội,
nên thầy tôi mới trốn vào ẩn ở Tây Sơn, dạy võ nghệ cho tôi cùng Văn Lân, Văn Sở.
Thầy tôi có dạy cho tôi cách thuần phục voi rừng. Dù voi dữ cũng chớ giết đi mà
uổng. Tôi xin đem theo một trăm quân đến tùy cơ ứng biến, nếu thuần phục được
chúng lập thành đội tượng binh thì sức mạnh của quân ta tăng lên gấp bội. Xin
tướng quân chấp thuận.
Huệ
khen:
-
Cô Xuân thật là nữ nhi hào kiệt đáng làm hổ thẹn đấng mày râu. Nhưng mình cô đi
ta thật chẳng yên lòng. Văn Lân, Văn Sở hãy theo giúp nữ tướng Bùi Thị Xuân, nếu
việc thành thì công lao của các ngươi thật là to lớn đó.
Văn
Tuyết xen vào hỏi:
-
Dám hỏi thầy của nữ tướng giờ đây sức khỏe thế nào?
Văn
Sở đáp:
-
Ông nội tôi lâm bệnh đã mất cách đây hai năm rồi.
Tuyết
bước đến cầm tay Sở, bùi ngùi nói:
-
Ông nội tướng quân phải gian truân xa quê chết nơi đất khách chính là lỗi do
tôi!
Văn
Sở còn đang kinh ngạc thì Văn Lân hỏi:
-
Tuyết tướng quân nói gì chúng tôi không hiểu?
Nguyễn
Huệ đỡ lời:
-
Ta nghe đại huynh kể lại rằng: Ngày trước chúa Nguyễn xa giá vào Quy Nhơn có
tên thích khách chúa không thành bèn cướp ngựa Xích kỳ của chúa trốn đi chính
là song đao Nguyễn Văn Tuyết đó. Nay nghe Đô thống Ngô Mãnh vì mất ngựa mà phải
tội nên trong lòng áy náy đó thôi.
Văn
Sở điềm đạm nói:
-
Ông tôi dù còn sống cũng đâu vì thế mà trách cứ tướng quân. Có đáng trách là lũ
quan tham bạo chúa để muôn dân oán ghét mà thôi. Âu cũng là ý trời muốn anh
hung hội tụ đất Tây Sơn, chúng ta hãy bỏ qua chuyện cũ thề một lòng phò chủ tướng
vì nước cứu dân.
Nguyễn
Huệ rót rượu cho các tướng nâng ly đồng thanh hô lớn: “Xin thề.” Bùi Thị Xuân,
Ngô Văn Sở, Phan Văn Lân bái biệt lên đường.
Bùi
Thị Xuân cùng Sở, Lân dẫn đầu đến nơi bỗng nghe tiếng voi gầm. Lân quay lại bảo
xạ thủ:
-
Quân sĩ chuẩn bị cung tên, voi dữ sắp đến.
Xuân
lắng nghe rồi bảo:
-
Tiếng gầm nghe bi ai đau đớn chắc là voi bị nạn, hai em có thấy thế không?
Văn
Sở gật đầu nói:
-
Chị Xuân nói rất đúng, loài voi tuy dữ nhưng rất có nghĩa, trọng ơn. Nếu cứu được
chúng đó là trời giúp ta vậy.
Văn
Lân hối:
-
Nếu vậy anh Sở ở lại đây bố trí ba quân, tôi cùng chị Xuân lần theo tiếng voi gầm,
vào đấy xem sao.
Nói
xong vọt ngựa đi liền, Xuân giục ngựa đuổi theo. Đến gần tiếng voi gầm hai người
thấy con voi trắng một ngà to lớn đang bị một con trăn dài chừng trăm thước, to
ngót thân người quấn chặt. Voi không cựa quậy được gầm lên đau đớn. Không chút
chậm trễ, Xuân liền lấy cung rút tên độc bắn một phát cắm ngập vào đầu trăn.
Trăn quằn quại nhả dần, nhả dần rồi rơi xuống đất. Xuân nhảy xuống ngựa tiến lại
gần voi. Voi một ngà quỳ hai chân trước cúi đầu co vòi lạy người cứu mạng.
Xuân
đến gần nói:
-
Ta không có ý hại ngươi, chỉ khuyên ngươi đừng nhiễu hại dân làng. Nếu hiểu được
lời thì hãy theo ta về phò vua giúp nước.
Voi
phủ phục cho Xuân leo lên cổ rồi ngoan ngoãn đứng dậy theo Văn Lân đang đi trước
dẫn đường.
Bùi
Thị Xuân cưỡi voi trắng một ngà cùng Văn Sở, Văn Lân về doanh trại. Nguyễn Huệ
thân hành ra đón, khen rằng:
-
Nhờ tài xạ tiễn cô Xuân thu phục được voi rừng, thật xưa nay hiếm có nữ nhi nào
như thế. Nếu thời thế tạo anh hùng thì ắt có thể sánh bằng bà Triệu, bà Trưng
ngày xưa vậy.
Thị
Xuân khiêm tốn nói:
-
Được như vậy là nhờ hồng phúc của chủ tướng mà thôi. Chứ nếu voi dữ không gặp nạn
thì dễ gì đem được về đây?
Huệ
nói:
-
Còn việc thành lập đội tượng binh cô Xuân định làm thế nào?
Xuân
đáp:
-
Tướng quân chiêu mộ vài mươi quản tượng. Còn tôi, xin một mình dẫn voi trắng đầu
đàn lên rừng thuần phục đàn voi ấy. Sau đó theo hiệu cờ và trống lệnh quản tượng
sẽ dạy cho chúng tiến thoái thành đội ngũ. Như thế chắc rằng ta có thể thành lập
nên một đội tượng binh hùng mạnh.
Huệ
khen:
-
Hay! Hay lắm đúng là nữ nhi anh kiệt, chưa ra trận đã tỏ rõ tài thao lược, đáng
khen thay.
Nói
đoạn lập tức sai người tuyển chọn quản tượng. Từ ấy về sau ngày ngày Thị Xuân
cưỡi voi trắng vào rừng bắt voi hoang đem về doanh trại.
oOo
Một
hôm, Xuân vào rừng bỗng nghe tiếng cọp gầm rung chuyển núi đồi, lại nghe có tiếng
người hét vang. Xuân cưỡi voi về phía ấy, thấy giữa trảng cỏ tranh một thanh
niên tay cầm đại đao đang đánh nhau với cọp dữ. Phút chốc cọp bị đao chém chết
ngay. Không ngờ một con hổ khác từ sau lưng vồ tới, người ấy lách mình tránh khỏi
nhưng bị cọp tát văng mất đại đao. Người ấy không hề nao núng, tay không đánh
nhau với hổ dữ suốt nửa giờ không phân thắng bại.
Bùi
Thị Xuân ngồi trên bành voi gương cung lắp tên bắn một phát nhằm giữa trán hổ.
Cọp dữ ngã ra chết ngay. Người ấy giật mình quay lại, thấy kẻ cầm cung là một
thiếu nữ mặt hoa má phấn, mười phần xinh đẹp liền bước đến thi lễ.
-
Tạ ơn nữ hiệp đã ra tay cứu giúp, nếu không mạng tôi chưa biết thế nào!
Xuân
từ lưng voi nhảy xuống:
-
Xin tráng sĩ đừng nên khách sáo, gặp nguy khốn giúp nhau là chuyện thường tình.
Dám hỏi tráng sĩ là người phương nào, cớ sao một mình vào chốn rừng sâu?
Người
ấy đáp:
-
Tôi tên Trần Quang Diệu quê ở Bồng Sơn đi đường núi vào Tây Sơn tìm bạn nên gặp
cọp giữa đường. Còn cô nương sao cưỡi voi vào rừng làm chi, thân nữ nhi coi thường
nguy hiểm, bắn tên bách phát bách trúng thật làm Diệu tôi khâm phục vô cùng.
Thấy
Trần Quang Diệu mày tăm mắt phụng tướng mạo khôi ngô, Xuân e thẹn trả lời:
-
Tôi tên Bùi Thị Xuân quê ở Tây Sơn Hạ, theo chủ tướng là Nguyễn Nhạc và Nguyễn
Huệ dấy binh ở Tây Sơn Thượng. Nay vào rừng săn voi mới tình cờ gặp tráng sĩ
tay không đánh cọp, tài năng thật hiếm thấy trên đời. Tráng sĩ vào đây tìm bạn ở
đâu, tôi có thể chỉ giúp được chăng?
Diệu
mừng rỡ đáp:
-
Nếu cô nương theo Nguyện Huệ dấy binh thì thật là may cho tôi quá, bạn tôi
chính là Nguyễn Huệ đó.
Xuân
vội đỡ lời:
-
Hay quá! Vậy mời tráng sĩ cùng lên lưng voi về doanh trại.
Diệu
ngập ngừng:
-
Kẻ nam người nữ điều ấy có tiện hay chăng? Cô nương cứ để mặc tôi đi bộ theo
sau cũng được rồi.
Xuân
cúi đầu đáp:
-
Vẫn biết rằng: “Nam nữ thọ thọ bất tương thân.” Nhưng từ đây về bản trại đi bộ
mất nửa ngày đường mà trời đã xế chiều. Vả lại tráng sĩ chẳng nghe chuyện vị
cao tăng cõng cô gái qua sông mà tâm chỉ nghĩ về Phật pháp hay sao. Nếu đã cùng
nhau lo đại sự còn chấp nê chuyện nhỏ nhặt làm gì.
Quang
Diệu chẳng biết nói sao đành lên lưng voi cùng Bùi Thị Xuân về doanh trại.
Đến
nơi Quang Diệu vào yết kiến Nguyễn Huệ. Huệ mời ngồi rồi nói:
-
Tôi có nghe cô Xuân kể rằng, gặp tráng sĩ đánh cọp giữa rừng lại tự xưng là bạn
của Huệ. Huệ tôi không bao giờ dám quên tình xưa nghĩa cũ, nhưng quả thật không
nhớ rằng đã gặp tráng sĩ ở đâu?
Diệu
cười lớn:
-
Tôi nghe tiếng Nguyễn Huệ là người thường vì kẻ khác quên mình, sức mạnh như thần,
võ nghệ tuyệt luân, gồm tài thao lược đang chiêu hiền đãi sĩ nên vượt núi rừng
đến xin kết bạn. Chẳng hay huynh trưởng chê tôi là người hèn mọn hay chăng?
Huệ
cười ha hả nói:
-
Kẻ anh hùng trong bốn biển đều là huynh đệ. Người đức độ ai cũng muốn bớt thù
thêm bạn, nay có bậc hào kiệt đến kết giao chẳng phải là điều may mắn hay sao?
Nói
xong sai quân đem rượu thịt thết đãi.
Quang
Diệu nói:
-
Chẳng giấu gì tướng quân, tôi hiện đang chiêu mộ được vài trăm tráng sĩ, hằng
ngày có kết giao với Đặng Văn Long vốn cùng tướng quân là huynh đệ đồng môn.
Nghe Văn Long nói tướng quân chiêu hiền đãi sĩ ở Tây Sơn nên trước đến xem sự
thể thế nào, sau sẽ đem quân đến hầu trước tướng.
Huệ
vội hỏi:
-
Văn Long trước cùng tôi chia tay khi nghe tin mẹ bệnh. Có hẹn trước cùng nhau tụ
nghĩa ở Tây Sơn, nay chẳng biết gia cảnh thế nào mà Văn Long chưa đến.
Diệu
đáp:
-
Mẹ Văn Long đã mất nên ở nhà chịu tang ba năm.
Huệ
ngậm ngùi:
-
Văn Long là người hiếu nghĩa, thích ngao du sơn thủy xem nhẹ công danh. Nay vì
chữ hiếu đành chôn chí tang bồng hồ thỉ, thật đáng tiếc thay.
Chợt
nhớ ra điều gì Huệ hỏi:
-
Từ Bồng Sơn vào đây sao tướng quân không đi đường đại lộ qua thành Quy Nhơn rồi
theo hướng Tây Sơn Hạ vượt đèo Mang lên Tây Sơn Thượng mà lại theo đường núi
cho lắm gian nguy đến thế?
Diệu
đáp:
-
Tôi vốn mộ quân lập căn cứ ở núi rừng phía Tây Bồng Sơn nên có quen biết với
người Thượng. Họ có đường băng rừng từ Quảng Ngãi có thể vào đến Tây Sơn, có thể
ra đến Quảng Nam, Thuận Hoá. Nên tôi mới đi trước dò đường vì khi đưa hai trăm
quân vào đây không thể nào qua thành Quy Nhơn mà chẳng bị sự truy cản của quan
quân.
Huệ
mừng rỡ nói:
-
Trời đưa tướng quân về với ta chính là trời giúp ta vậy.
Diệu
nói:
-
Tôi có tài cán gì mà chủ tướng quá khen thế.
Huệ
chợt hỏi:
-
Không có tài cán gì mà tay không dám đánh nhau với cọp dữ? Nhưng tại sao tướng
quân bị mất đao?
Diệu
đáp:
-
Tôi bị cọp vồ từ sau lưng, may mà tránh kịp, nhưng bị cọp tát văng mất đại đao.
Huệ
trầm ngâm nói:
-
Nếu ta có con đường thượng đạo ấy bất ngờ đánh vào sau lưng kẻ địch, ví như cọp
vồ từ sau lưng tướng quân đó.
Diệu
giật mình đứng dậy chắp tay.
-
Lời Văn Long nói quả không sai, chủ tướng nhìn xa thấy rộng. Diệu tôi vô cùng
bái phục.
Huệ
nắm tay Diệu thân mật nói:
-
Khi về tướng quân hãy vì tôi đem quân mở đường theo lối mòn của người Thượng từ
Bồng Sơn vào đây rồi cùng hội quân ở Tây Sơn Thượng. Sau đó tôi sẽ cấp thêm
quân lương cho tướng quân, cứ theo dãy núi Trường Sơn mở đường từ Nam ra Bắc,
sau này đạo binh đi theo đường thượng đạo đánh vào sau lưng địch quân chính là
của tướng quân đó. Bây giờ mời tướng quân hãy vào trong trướng nghỉ ngơi, ngày
mai sẽ lên đường.
Diệu
vâng lệnh lui ra.
Chú
thích:
(1):
Hai hòn núi này nay được mang tên là núi ông Nhạc và núi ông Bình (một tên khác
của Nguyễn Huệ).
xem tiếp: * Chương 6: Mượn oai trời Nguyễn Nhạc dấy binh - Giấu chân tướng Tây Sơn làm cướp
xem tiếp: * Chương 6: Mượn oai trời Nguyễn Nhạc dấy binh - Giấu chân tướng Tây Sơn làm cướp
Không có nhận xét nào :
Đăng nhận xét
Có viết cho nhau cả vạn lời,
Rằng thương rằng nhớ để rồi thôi,
Chi bằng trên đường đời vạn nẻo,
Sống Để Yêu Thương thế đủ rồi...